Phê duyệt Quy hoạch hệ thống trung tâm logistics cả nước
Theo đó, Bình Định nằm trong phạm vi hoạt động chủ yếu của Trung tâm logistics hạng II hình thành tại Hành lang kinh tế đường 19 và duyên hải Nam Trung Bộ có quy mô tối thiểu 20 ha đến năm 2020 và trên 30 ha đến năm 2030, phạm vi hoạt động chủ yếu gồm các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận và hướng lên các tỉnh Tây Nguyên; kết nối với các cảng cạn, cảng biển (Quy Nhơn, Dung Quất, Ba Ngòi), cảng hàng không, nhà ga, bến xe, các khu công nghiệp, các cửa khẩu (thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên).
Cũng theo phương án Quy hoạch phát triển các trung tâm dịch vụ logistics trên cả nước, tại miền Bắc hình thành và phát triển 7 Trung tâm logistics hạng I, hạng II và 1 Trung tâm logistics chuyên dụng gắn liền với cảng hàng không tại địa bàn các vùng và hành lang kinh tế.
Tại miền Trung – Tây Nguyên, hình thành và phát triển 6 Trung tâm logistics hạng I, hạng II và 1 Trung tâm logistics chuyên dụng hàng không tại địa bàn các vùng, tiểu vùng và hành lang kinh tế.
Tại miền Nam, hình thành và phát triển 5 trung tâm logistics hạng I, hạng II và 1 trung tâm logistics chuyên dụng hàng không tại địa bàn các vùng, tiểu vùng và hành lang kinh tế như vùng Đông Nam Bộ (khu vực TP Hồ Chí Minh, tiểu vùng kinh tế các tỉnh Đông Bắc TP Hồ Chí Minh, tiểu vùng kinh tế các tỉnh Tây Nam TP Hồ Chí Minh, tiểu vùng kinh tế trung tâm đồng bằng sông Cửu Long).
Với mục tiêu phát triển mạng lưới trung tâm logistics nhằm bảo đảm đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa trong nước và xuất, nhập khẩu. Khai thác có hiệu quả thị trường dịch vụ logistics của Việt Nam, trong đó, tập trung vào các dịch vụ logistics thuê ngoài, tích hợp trọn gói và đồng bộ, tổ chức và hoạt động theo mô hình logistics bên thứ 3 (3PL) nhằm thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển thông qua việc tối thiểu hóa chi phí và bổ sung giá trị gia tăng cho hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp. Từng bước triển khai mô hình logistics bên thứ 4 (4PL) và logistics bên thứ 5 (5PL) trên cơ sở phát triển thương mại điện tử và quản trị chuỗi cung ứng hiện đại, hiệu quả, chuyên nghiệp.
Phấn đấu đến năm 2020, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt khoảng 24% - 25%/năm, tỷ trọng đóng góp vào GDP toàn nền kinh tế là 10%, tỷ lệ dịch vụ logistics thuê ngoài khoảng 40% giảm thiểu chi phí logistics của toàn nền kinh tế so với GDP còn khoảng 20%. Đến năm 2030, các chỉ tiêu này lần lượt là 34% - 35%/năm, 15% - 17%/năm.
Bên cạnh đó, Quyết định cũng đưa ra các giải pháp, chính sách phát triển chủ yếu. Theo đó, cụ thể hóa, sửa đổi, bổ sung các cơ chế, chính sách hiện hành nhằm huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để phát triển hệ thống trung tâm logistics; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng và quản lý khai thác các trung tâm logistics bằng nhiều hình thức theo quy định của pháp luật; khuyến khích đầu tư và phát triển dịch vụ logistics, gồm cả hoạt động của trung tâm logistics chuyên dụng gắn với cảng hàng không, kho hàng không kéo dài có yêu cầu riêng về an ninh, an toàn kiểm tra, giám sát hải quan.
Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận với khách hàng để hưởng thù lao.
Vì thế, để đạt được những mục tiêu nêu trên, Thủ tướng khẳng định cần tiếp tục thuận lợi hóa các thủ tục hải quan nhằm tạo điều kiện cho các hàng hóa xuất, nhập khẩu và quá cảnh qua Việt Nam, từ đó phát triển các loại hình vận chuyển hàng hóa đa phương thức và hình thành các trung tâm trung chuyển hàng hóa mang tầm khu vực và quốc tế tại Việt Nam; đồng thời, sẽ bố trí quỹ đất phù hợp dành cho phát triển hệ thống trung tâm logistics; thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất đối với các dự án có vị trí kinh doanh thuận lợi.
Theo Kiều Oanh (Binhdinhinvest.gov.vn)