Đề xuất 4 loài cây để trồng rừng đặc dụng, phòng hộ
Sau nhiều năm theo dõi và đánh giá thực tế, nhóm nghiên cứu do Chi cục Kiểm lâm tỉnh chủ trì đã đề xuất 4 loài cây bản địa phù hợp để tiếp tục phát triển rừng đặc dụng, phòng hộ. Đây là kết quả nghiên cứu khoa học về điều tra thực trạng và đánh giá các loài cây bản địa đã trồng rừng đặc dụng, rừng phòng hộ giai đoạn 2011 - 2020, góp phần bảo vệ rừng, môi trường và sinh kế người dân.
Ông Nguyễn Đình Lâm, Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện An Lão (chủ nhiệm nhiệm vụ), chia sẻ: “Chúng tôi đã trực tiếp khảo sát, theo dõi hàng trăm ha rừng trồng từ năm 2011 - 2020 tại nhiều vùng sinh thái khác nhau trong tỉnh. Việc đánh giá không chỉ dừng lại ở tỷ lệ sống, mà còn xét đến khả năng thích nghi, phát triển chiều cao, đường kính và cả tác động từ cộng đồng, yếu tố nhiều khi bị bỏ quên nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến sinh trưởng của cây rừng”.
Cây sao đen 6 năm tuổi được trồng ở vùng rừng huyện Vân Canh, cho thấy ít thích nghi với thổ nhưỡng, khí hậu ở địa phương. Ảnh: A.N
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trong số các loài cây bản địa từng được đưa vào trồng, chỉ có một số ít thể hiện khả năng phát triển nổi bật, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu, đất đai đặc trưng của Bình Định. Từ thực tế đó, nhóm nghiên cứu đề xuất 4 loài cây có tiềm năng cao để tiếp tục trồng rừng đặc dụng và rừng phòng hộ gồm: Lim xanh, lim xẹt, thông caribe và phi lao.
Theo Th.S Nguyễn Xuân Vũ, công chức Chi cục Kiểm lâm tỉnh (đồng chủ nhiệm nhiệm vụ), lim xanh là loài cây quý, sinh trưởng chậm nhưng chắc, tán rộng, rễ sâu, giữ đất tốt và ít bị sâu bệnh.
Trong khi đó, thông caribe là cây ngoại nhập nhưng được thuần hóa và trồng phổ biến tại một số địa phương miền Trung cho thấy khả năng thích nghi vượt trội với điều kiện đất cằn, nghèo dinh dưỡng. Tốc độ sinh trưởng của thông caribe nhanh, rễ bám chắc, ít bị đổ gãy, rất thích hợp để trồng ở các vùng núi cao nhằm bảo vệ đất, giữ nước và tăng tỷ lệ che phủ rừng. Riêng phi lao là lựa chọn gần như không thể thay thế ở các khu vực ven biển, nơi cần chống cát bay, chắn gió mạnh và tăng cường khả năng giữ đất vùng ven biển.
Từ kết quả nghiên cứu, nhóm nghiên cứu kiến nghị sớm rà soát, điều chỉnh các quy trình kỹ thuật trồng rừng hiện hành, đặc biệt với các loài cây bản địa. Đồng thời, cần tiếp tục đầu tư, ưu tiên nguồn lực cho công tác bảo vệ rừng, đào tạo và nâng cao năng lực cho lực lượng kiểm lâm, đặc biệt trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng tác động đến hệ sinh thái rừng.