Hội nghị công bố Chỉ số PAR Index và SIPAS năm 2020
Điểm cầu Bình Định
Giá trị trung bình Chỉ số PAR INDEX 2020: Các bộ, cơ quan ngang bộ tăng 1.93%; các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tăng 2.57%
Theo báo cáo tại Hội nghị, năm 2020, Chính phủ đã ban hành và chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách, giải pháp cấp bách để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, cải thiện môi trường đầu tư; thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công; đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, tăng cường giải quyết hồ sơ, xử lý công việc trên môi trường điện tử; đẩy mạnh giải quyết hồ sơ TTHC trực tuyến, tạo thuận lợi tối đa cho người dân, doanh nghiệp, nhất là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch bệnh Covid-19. Cùng với đó, các địa phương đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể, sáng tạo để tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính (CCHC) được giao, phù hợp với đặc điểm, tình hình thực tiễn tại địa phương, giúp kết quả CCHC trong năm 2020 có nhiều chuyển biến rõ nét.
Trong các bộ, cơ quan ngang bộ, nhóm đạt kết quả Chỉ số CCHC trên 90% tiếp tục là: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (95.88), Bộ Tài chính (94.84) và Bộ Tư pháp (94.02). Các đơn vị còn lại thuộc nhóm thứ hai, đạt kết quả Chỉ số CCHC từ trên 80% đến dưới 90%. Không có đơn vị nào có Chỉ số CCHC dưới 80%.
Giá trị trung bình Chỉ số CCHC của 17 bộ, cơ quan ngang bộ đạt được là 87.56%, tăng 1.93% so với năm 2019, đồng thời tăng 12.18% so với năm 2012 (năm đầu tiên sử dụng công cụ Chỉ số để đánh giá CCHC của các bộ, các tỉnh).
Trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có 02 địa phương thuộc Nhóm A, đạt kết quả Chỉ số từ 90% trở lên là Quảng Ninh (91.04%) và Hải Phòng (90.51%); 56 tỉnh, thành phố thuộc Nhóm B, đạt kết quả Chỉ số từ 80% - dưới 90%; 05 địa phương thuộc Nhóm C đạt kết quả Chỉ số từ 70% - dưới 80% gồm Bắc Kạn, Ninh Thuận, Kiên Giang, Phú Yên, Quảng Ngãi. Theo đánh giá, PAR INDEX của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có kết quả đạt giá trị trung bình là 83.72%, cao hơn 2.57% so với giá trị trung bình năm 2019 và đạt giá trị cao nhất trong 5 năm gần đây. Đáng chú ý, năm 2020 có 58 địa phương đạt Chỉ số CCHC trên 80% và 38 địa phương đạt Chỉ số CCHC cao hơn giá trị trung bình của cả nước.
Theo kết quả được công bố, Bình Định đứng thứ 31/63 tỉnh thành với 83,97 điểm; tăng 15 bậc so với năm 2019.
Kết quả Chỉ số PAR Index hàng năm đã trở thành công cụ quản lý quan trọng, phục vụ có hiệu quả trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị; giúp xác định rõ ưu điểm, khuyết điểm trong thực hiện nhiệm vụ CCHC; thông qua kết quả đánh giá đã chỉ rõ được trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, tổ chức đối với từng nhiệm vụ CCHC, làm cơ sở cho việc đánh giá mức độ thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức và mức độ, hiệu quả thực thi công vụ của công chức, viên chức.
85,48% người dân, tổ chức hài lòng về việc cung ứng dịch vụ công, sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước
Quang cảnh Hội nghị tại điểm cầu Chính phủ (Ảnh: baochinhphu.vn)
Năm 2020 là năm thứ tư tổ chức triển khai SIPAS trên phạm vi cả nuớc và đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của xã hội nói chung, người dân, tổ chức (NDTC), công chức nói riêng, góp phần giúp quá trình thực hiện SIPAS 2020 thuận lợi, hiệu quả hơn.
SIPAS 2020 tiếp tục đánh giá 16 nhóm dịch vụ công thuộc 8 nhóm lĩnh vực ở 3 cấp chính quyền địa phương của 63 tỉnh dựa trên kết quả khảo sát gần 36.000 NDTC từ khắp các vùng, miền trong cả nước.
Kết quả SIPAS 2020 cho thấy 85,48% NDTC hài lòng về việc cung ứng dịch vụ công, sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nuớc nói chung trong cả nước. Tỷ lệ hài lòng của NDTC đối với 3 cấp hành chính nằm trong khoảng 85,43 - 88,18%; trong đó, cấp xã có tỷ lệ hài lòng cao nhất và cấp tỉnh thấp nhất. Tỷ lệ hài lòng của NDTC đối với 8 nhóm lĩnh vực nằm trong khoảng 83,20 - 89,88%, trong đó lĩnh vực giao thông, vận tải cao nhất và lĩnh vực đất đai, môi trường thấp nhất.
Trong 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Hưng Yên tiếp tục thuộc nhóm tỉnh có chỉ số hài lòng cao nhất, cùng với 2 tỉnh mới của nhóm là Bắc Giang và Vĩnh Phúc. Trong khi đó, Bình Thuận, Đắk Lắk, Cao Bằng, Quảng Ngãi, Kiên Giang tiếp tục nằm trong nhóm các tỉnh có chỉ số hài lòng thấp nhất, cùng với 2 tỉnh mới là Bình Phước và Quảng Bình. Sự hài lòng của NDTC đối với các địa phương nằm trong khoảng từ 75,68 - 95,76%, khoảng cách chênh lệch giữa tỉnh cao nhất và thấp nhất là 20,08%.
Chỉ số SIPAS năm 2020 của tỉnh Bình Định đạt 86,17 điểm, xếp thứ 29/63 tỉnh, thành phố; tăng 16 bậc so với năm 2019.
Trong giai đoạn 2017 - 2020, tỷ lệ NDTC hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước nói chung tăng dần qua mỗi năm, từ 80,90% lên 85,48%. Khoảng cách chênh lệch về mức độ hài lòng của NDTC giữa tỉnh cao nhất và tỉnh thấp nhất trong 63 tỉnh được thu hẹp dần, từ 28,5% xuống 20,08%.
SIPAS 2020 tiếp tục mang đến một bức tranh toàn diện, chi tiết về chất lượng cung ứng dịch vụ công, sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước ở 63 tỉnh, phản ánh cả những kết quả tích cực và tồn tại, đồng thời cũng cho thấy những mong đợi của NDTC về cung ứng dịch vụ công.
Chỉ số SIPAS và Chỉ số PAR Index - công cụ quản lý hiệu quả kết quả CCHC
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình phát biểu tại Hội nghị. (Ảnh: baochinhphu.vn)
Phát biểu tại hội nghị, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình biểu dương sự cố gắng, nỗ lực của các bộ, ngành Trung ương, các tỉnh, thành phố và đặc biệt là Bộ Nội vụ trong việc triển khai xác định Chỉ số SIPAS và Chỉ số PAR Index năm 2020.
“Các chỉ số này đã trở thành công cụ quản lý hiệu quả kết quả CCHC, giúp Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương nhận diện rõ những kết quả đạt được, cũng như những tồn tại, hạn chế của nền hành chính nói chung, của quá trình triển khai nhiệm vụ CCHC hàng năm của bộ, ngành, địa phương nói riêng”, Phó Thủ tướng khẳng định.
Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ nêu rõ một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác CCHC mà các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện. Cụ thể: Người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp từ Trung ương đến địa phương tiếp tục có những biện pháp, giải pháp mới, đột phá, phù hợp để cải thiện, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ hành chính công cho người dân, tổ chức. Khơi thông nguồn lực, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, thuận lợi, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo điều hành và thực thi pháp luật. tiếp tục đẩy mạnh cải cách TTHC, rà soát, đề xuất cắt giảm, đơn giản hóa các quy định về hoạt động kinh doanh theo quy định tại Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ. Đổi mới việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng nâng cao chất lượng phục vụ, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin… Nâng cao hơn nữa hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, cổng dịch vụ công các bộ, ngành, địa phương. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước. Đẩy mạnh việc rà soát, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy và kiện toàn chức năng, nhiệm vụ các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số và ứng dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ thúc đẩy hoàn thành xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước các cấp; nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ công cho người dân, tổ chức. Tiếp tục triển khai có hiệu quả việc gửi nhận văn bản điện tử giữa các cấp chính quyền; việc họp trực tuyến và xử lý công việc trên môi trường điện tử; hoàn thành việc xây dựng hệ thống thông tin báo cáo bộ, ngành, địa phương tích hợp với tích hợp với Hệ thống báo cáo Chính phủ. Bộ Nội vụ cần tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung phương pháp, nội dung, cách làm mới trong đánh giá Chỉ số SIPAS và Chỉ số PAR Index, bảo đảm đánh giá toàn diện, khách quan, công bằng, kịp thời, phản ánh đầy đủ, đa chiều kết quả triển khai CCHC tại các bộ, các địa phương./.
Kim Loan